Scholar Hub/Chủ đề/#tiêu huyết khối/
Tiêu huyết khối là một quy trình y khoa nhằm loại bỏ cục máu đông gây tắc nghẽn mạch máu, ngăn ngừa các biến chứng nghiêm trọng như nhồi máu cơ tim và đột quỵ. Phương pháp hoạt động bằng cách sử dụng thuốc tiêu sợi huyết như streptokinase và tPA, kích hoạt plasminogen thành plasmin để phân giải fibrin. Mặc dù có nhiều lợi ích, tiêu huyết khối cũng tiềm ẩn rủi ro như chảy máu và dị ứng thuốc. Do đó, cần cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích và nguy cơ, dưới sự giám sát của chuyên gia y tế.
Tiêu Huyết Khối: Tổng Quan và Vai Trò Trong Y Học
Tiêu huyết khối là một quy trình y khoa được áp dụng để loại bỏ hoặc làm tan cục máu đông trong mạch máu. Các cục máu đông này thường gây cản trở lưu thông máu, dẫn đến nhiều biến chứng nghiêm trọng như tai biến mạch máu não, nhồi máu cơ tim và tắc mạch phổi. Trong bài viết này, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu chi tiết về tiêu huyết khối, từ phương thức hoạt động cho đến các ứng dụng lâm sàng.
Cơ Chế Hoạt Động Của Tiêu Huyết Khối
Tiêu huyết khối thường được thực hiện bằng cách sử dụng các thuốc tan cục máu đông. Những loại thuốc này, được gọi là thuốc tiêu sợi huyết, hoạt động bằng cách kích hoạt plasminogen, một protein hiện diện trong máu, để chuyển hóa thành plasmin - một enzyme có khả năng phân giải fibrin, cấu trúc chính của cục máu đông.
Một số thuốc tiêu sợi huyết phổ biến bao gồm streptokinase, urokinase và tissue plasminogen activator (tPA). Những thuốc này có thể được dùng qua đường tĩnh mạch và nhanh chóng phát huy tác dụng trong vòng vài giờ sau khi được tiêm.
Ứng Dụng Lâm Sàng
Tiêu huyết khối có nhiều ứng dụng quan trọng trong y học. Đặc biệt, nó được sử dụng để điều trị:
- Nhồi Máu Cơ Tim: Tiêu huyết khối sớm có thể giúp tái thông dòng máu qua động mạch vành, giảm thiểu tổn thương cơ tim và cải thiện cơ hội sống sót.
- Đột Quỵ Do Thiếu Máu Cục Bộ: Đối với những bệnh nhân có đột quỵ do tắc nghẽn động mạch não, việc sử dụng tiêu huyết khối trong vòng vài giờ đầu tiên sau khi xuất hiện triệu chứng có thể giảm đáng kể nguy cơ tàn phế dài hạn.
- Tắc Mạch Phổi: Trong các trường hợp tắc mạch phổi đe dọa tính mạng, tiêu huyết khối có thể giúp loại bỏ cục máu đông và cải thiện chức năng hô hấp.
Nguy Cơ Và Tác Dụng Phụ
Mặc dù tiêu huyết khối mang lại nhiều lợi ích quan trọng, quá trình này cũng đi kèm với những nguy cơ đáng kể. Các tác dụng phụ phổ biến nhất bao gồm:
- Chảy máu nghiêm trọng, bao gồm chảy máu nội sọ hoặc xuất huyết tiêu hóa.
- Phản ứng dị ứng hoặc sốc phản vệ đối với thuốc tiêu sợi huyết.
Việc sử dụng tiêu huyết khối thường cần được cân nhắc kỹ lưỡng giữa lợi ích và nguy cơ, và bệnh nhân cần được giám sát chặt chẽ trong quá trình điều trị.
Kết Luận
Tiêu huyết khối là một phương pháp điều trị quan trọng trong việc đối phó với các tình trạng khẩn cấp về huyết học. Với sự phát triển không ngừng của công nghệ y học, các phương pháp tiêu huyết khối ngày càng được cải tiến để tăng hiệu quả và giảm thiểu rủi ro. Tuy nhiên, điều cốt yếu vẫn là chẩn đoán kịp thời và sử dụng thuốc phù hợp dưới sự giám sát của chuyên gia y tế.
Kết hợp vincristine và trao đổi huyết tương như liệu pháp ban đầu ở bệnh nhân mắc bệnh purpura giảm tiểu cầu huyết khối: kinh nghiệm của một cơ sở và tổng quan tài liệu Dịch bởi AI Transfusion - Tập 45 Số 1 - Trang 41-49 - 2005
NỀN TẢNG: Bệnh purpura giảm tiểu cầu huyết khối (TTP) từng là một căn bệnh rất nguy hiểm với tỷ lệ tử vong gần 95 phần trăm; tuy nhiên, việc áp dụng trao đổi huyết tương điều trị (TPE) đã làm tăng tỷ lệ sống sót một cách đáng kể. Dù vậy, tỷ lệ tử vong vẫn còn cao (10%‐30% trong nhiều báo cáo đã công bố), cần phải tìm kiếm các phương pháp điều trị hiệu quả hơn. Vincristine (VCR) thường được dành cho các trường hợp TTP kháng trị. Mặc dù hiệu quả trong chế độ cấp cứu, VCR chưa được khuyến nghị rộng rãi như liệu pháp tuyến đầu kết hợp với TPE. Chúng tôi đã báo cáo tỷ lệ sống sót được cải thiện khi VCR và TPE được áp dụng ngay từ khi bệnh nhân đến trong khoảng thời gian từ 1979 đến 1994. Sử dụng phương pháp chuẩn hóa này, kết quả của một nhóm bệnh nhân bổ sung và những kết quả từ việc xem xét tài liệu về liệu pháp VCR cho TTP được báo cáo.
THIẾT KẾ NGHIÊN CỨU VÀ PHƯƠNG PHÁP: Hồ sơ y tế của tất cả bệnh nhân được chẩn đoán TTP điều trị từ năm 1995 đến 2002 tại Trung tâm Y tế Cedars‐Sinai đã được xem xét. TPE được thực hiện hàng ngày, trao đổi 1,25 thể tích huyết tương, cho đến khi số lượng tiểu cầu trở về mức bình thường. Bệnh nhân nhận VCR 1,4 mg/m2, (tối đa 2,0 mg tổng liều) sau TPE đầu tiên. Một cuộc tổng quan tài liệu về tất cả các công trình sử dụng VCR trong quản lý TTP đã được thực hiện với MEDLINE.
KẾT QUẢ: Mười hai bệnh nhân liên tiếp đạt tiêu chí chẩn đoán đã nhận được điều trị bằng VCR và TPE. Tất cả bệnh nhân đạt được sự thuyên giảm bền vững. Bệnh nhân dung nạp VCR mà không có biến chứng nghiêm trọng nào.
KẾT LUẬN: Tỷ lệ sống sót 100 phần trăm của chúng tôi, cũng như bằng chứng thu thập được từ cuộc tổng quan tài liệu, cho thấy rằng liệu pháp kết hợp giữa VCR và TPE ngay từ đầu có thể hiệu quả hơn so với chỉ TPE đơn thuần và do đó xứng đáng được xem xét như liệu pháp tuyến đầu cho bệnh nhân TTP.
Hồ sơ xét nghiệm nguy cơ cao của kháng thể kháng phospholipid và huyết khối liên quan đến số lượng lớn các biểu hiện ngoài tiêu chí trong hội chứng kháng phospholipid thai sản Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 67 - Trang 478-485 - 2019
Các biểu hiện ngoài tiêu chí như giảm tiểu cầu và livedo được mô tả liên quan đến hội chứng kháng phospholipid (APS) nhưng không được đưa vào các tiêu chí phân loại hiện tại. Biểu hiện lâm sàng của chúng có thể quan trọng, vì chúng có thể liên quan đến một hồ sơ nguy cơ cao của kháng thể kháng phospholipid (aPL) và huyết khối. Chúng tôi đã đánh giá mối liên quan giữa sự hiện diện của các biểu hiện ngoài tiêu chí trong APS thai sản nguyên phát (POAPS) và các hồ sơ aPL. Chúng tôi cũng đánh giá xem sự hiện diện của các biểu hiện ngoài tiêu chí ở bệnh nhân POAPS có làm tăng nguy cơ phát triển huyết khối trong thời gian theo dõi (thời gian theo dõi trung bình 5 năm; dao động từ 3–9 năm) hay không. Chúng tôi đã chọn 79 phụ nữ chỉ được đưa vào nghiên cứu của chúng tôi nếu họ được chẩn đoán lần đầu với POAPS (không có tiền sử huyết khối trước đó) và được đánh giá lại về sự hiện diện của huyết khối sau thời gian theo dõi. Chúng tôi đã đánh giá mối liên quan giữa hồ sơ aPL và các biểu hiện ngoài tiêu chí. Chúng tôi cũng đã đánh giá mối quan hệ của huyết khối trong thời gian theo dõi với các biểu hiện ngoài tiêu chí và các yếu tố nguy cơ khác. Bệnh nhân có ba hoặc nhiều hơn các biểu hiện ngoài tiêu chí cho thấy tỷ lệ dương tính ba lần cao với hồ sơ aPL (75%) (p < 0.001). Chúng tôi cũng phát hiện mối quan hệ giữa việc hiện diện của các biểu hiện ngoài tiêu chí và việc có titers cao của aPL: 91.7% bệnh nhân có ba hoặc nhiều hơn các biểu hiện ngoài tiêu chí có titers cao của aPL (p < 0.01). Chúng tôi đã đánh giá thêm nhóm bệnh nhân POAPS theo các sự kiện huyết khối trong thời gian theo dõi. Trong số những bệnh nhân này, 6 (7.6%) có huyết khối. Đáng chú ý, 100% bệnh nhân có sự kiện huyết khối trong thời gian theo dõi có hơn ba biểu hiện ngoài tiêu chí. Bệnh nhân POAPS có các biểu hiện ngoài tiêu chí có thể có hồ sơ aPL nguy cơ cao và nguy cơ lớn phát triển huyết khối.
#hội chứng kháng phospholipid #kháng thể kháng phospholipid #huyết khối #biểu hiện ngoài tiêu chí #phụ khoa
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN THỜI GIAN CỬA – KIM Ở BỆNH NHÂN ĐỘT QUỴ NHỒI MÁU NÃO CẤP ĐƯỢC ĐIỀU TRỊ TIÊU HUYẾT KHỐINghiên cứu nhằm mô tả một số yếu tố liên quan đến thời gian cửa – kim (DTN), là thời gian từ khi bệnh nhân nhập viện đến khi bệnh nhân được dùng thuốc tiêu huyết khối ở các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp. Đây là phương pháp hồi cứu mô tả tại bệnh viện Đại học Y Hà Nội và Bạch Mai trên 124 bệnh nhân đã được chẩn đoán nhồi máu não cấp và được điều trị tiêu huyết khối. Kết quả cho thấy có phim chụp sọ não trước khi đến viện, liên hệ trước với bệnh viện, vào viện trong giờ hành chính và thời gian nhập viện – thăm khám (DTE) ngắn là các yếu tố độc lập liên quan đến thời gian cửa - kim < 60 phút. Từ các kết quả này có thể giúp cải thiện quy trình và làm giảm được thời gian cửa - kim, từ đó nâng cao chất lượng điều trị bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp.
#Thời gian cửa – kim #đột quỵ nhồi máu não #nhồi máu não cấp #tiêu huyết khối.
CON NGƯỜI LÃNG QUÊN VÀ HÀNH TRÌNH TRUY TÌM THỜI GIAN ĐÃ MẤT TRONG TIỂU THUYẾT ĐỂ EM KHỎI LẠC TRONG KHU PHỐ CỦA PATRICK MODIANOLà một trong những nhà văn Pháp sáng giá của thế kỉ XX, Patrick Modiano được mệnh danh là cây bút của nghệ thuật kí ức. Toàn bộ văn nghiệp của ông là hành trình khắc khoải tìm lại quá khứ và kí ức nay đã nhòe nét, đã mất, những mong kiếm tìm câu trả lời “Tôi là ai?”. Bài viết tập trung xem xét hình ảnh con người lãng quên kí ức và hành trình mơ hồ, hư vô đi tìm thời gian đã mất trong tiểu thuyết Để em khỏi lạc trong khu phố, ở khía cạnh cơ bản: con người bị mất đi “thời gian tính”, lạc giữa hiện thực mờ nhòe và tính vô nghĩa của việc tìm về một thời xa vắng. Qua đó nhằm làm rõ hành trình tìm lại thời gian đã mất của nhân vật chính Jean Daragane, hay của chính chúng ta, là con đường dài vô định, quẩn quanh, vô nghĩa.
#Patrick Modiano; So You Don’t Get Lost in the Neighborhood; lost memories; Zeitlichkeit; the person who lost memories; personal identity.
NGHIÊN CỨU CÁC DIỄN BIẾN BẤT LỢI Ở BỆNH NHÂN TẮC ĐỘNG MẠCH NÃO ĐƯỢC LẤY HUYẾT KHỐI CƠ HỌC CÓ ĐIỀU TRỊ BẮC CẦUMục tiêu nghiên cứu: Nghiên cứu các biến chứng do tái thông mạch mạch máu não bằng tiêu sợi huyết kết hợp lấy huyết khối cơ học. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Các bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não mạch lớn trước 270 phút, có chỉ định đồng thời tiêu sợi huyết liều 0.9mg/kg và lấy huyết khối cơ học. Đánh giá các diễn biến bất lợi, đặc biệt chảy máu não sau tái tưới máu. Kết quả: Với 35 bệnh nhân thu được, tỷ lệ tái thông mạch tốt (TICI 2b-c) là 94%, hồi phục tốt thời điểm 90 ngày là 62,9% (mRS 0-2). Tỷ lệ xuất huyết chuyển dạng là 37,1% trong đó chủ yếu là xuất huyết chuyển dạng không triệu chứng 10/13 bệnh nhân xuất huyết (76,9%). Ngoài ra có thể gặp một số diễn biến bất lợi khác như viêm phổi (5,8%), suy thận (5,85), suy giảm thần kinh sớm (8,6%). Kết luận: Xuất huyết chuyển dạng là biến chứng hay gặp sau điều trị tiêu sợi huyết kết hợp lấy huyết khối động mạch (37,1%) nhưng kỹ thuật này vẫn là phương pháp hiệu quả trong điều trị đột quỵ não tắc mạch lớn.
#Đột quỵ não #tiêu sợi huyết #lấy huyết khối cơ học #xuất huyết chuyển dạng
ĐIỀU TRỊ TIÊU HUYẾT KHỐI TĨNH MẠCH Ở BỆNH NHÂN NHỒI MÁU NÃO CẤP KHÔNG XÁC ĐỊNH CHÍNH XÁC THỜI ĐIỂM KHỞI PHÁT DỰA VÀO MISMATCH DWI – FLAIR TRÊN MRI SỌ NÃOMục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, hình ảnh học và kết quả điều trị tái tưới máu bằng thuốc tiêu huyết khối đường tĩnh mạch ở bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp không xác định chính xác thời điểm khởi phát dựa vào hình ảnh không phù hợp DWI – FLAIR trên phim chụp MRI sọ não. Phương pháp nghiên cứu: Hồi cứu mô tả loạt ca bệnh, theo dõi kết cục lâm sàng tới 90 ngày sau khởi phát. Đối tượng là các bệnh nhân từ 18 tuổi trở lên, đột quỵ nhồi máu não cấp không xác định chính xác thời điểm khởi phát được điều trị bằng thuốc tiêu huyết khối alteplase đường tĩnh mạch tại Bệnh viện Bạch Mai, đáp ứng yêu cầu khoảng thời gian từ thời điểm cuối cùng bình thường tới khi được tiêu huyết khối trên 4,5 giờ, và khoảng thời gian từ khi được phát hiện đột quỵ tới tiêu huyết khối là dưới 4,5 giờ, có hình ảnh không tương xứng DWI – FLAIR trên phim chụp MRI sọ não, loại trừ những bệnh nhân được chỉ định lấy huyết khối cơ học. Kết quả: Từ tháng 5/2019 tới tháng 5/2021 có 40 bệnh nhân đáp ứng đủ điều kiện nghiên cứu. 72.5% là nam, tuổi trung bình 67.05 tuổi, 75% được phát hiện đột quỵ khi thức giấc. Thời gian trung bình từ lần cuối còn bình thường tới khi được dùng thuốc tiêu huyết khối là 7.75 giờ. Thời gian trung bình từ khi phát hiện đột quỵ tới khi được dùng thuốc tiêu huyết khối là 3,1 giờ. Điểm NIHSS lúc nhập viện có giá trị trung vị là 6 điểm, điểm NIHSS sau tiêu huyết khối 24h có gía trị trung vị là 3 điểm. Kết cục lâm sàng sau 90 ngày là 57.5% bệnh nhân hồi phục tốt (mRS 0-1), 1 bệnh nhân tử vong (2,5%), và 4 bệnh nhân cần chăm sóc tại giường (mRS 4-5) chiếm 10%. Tỉ lệ xuất huyết nội sọ có triệu chứng là 5%. Kết luận: Điều trị tiêu huyết khối bằng alteplase tĩnh mạch ở những bệnh nhân đột quỵ nhồi máu não cấp với thời gian khởi phát không xác định dưới hướng dẫn bởi không phù hợp DWI – FLAIR trên MRI sọ não cho kết quả tích cực.
#Đột quỵ não thức giấc #Nhồi máu não không rõ thời gian khởi phát #không phù hợp DWI – FLAIR
Điều trị bằng urokinase đối với cục máu đông tĩnh mạch dưới đòn-xoang Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 59 - Trang 851-856 - 1981
Trong 18 trường hợp bị tắc tĩnh mạch dưới đòn-xoang nguyên phát, liệu pháp tiêu huyết được thực hiện bằng urokinase kết hợp với heparin. Hiệu quả tiêu huyết rõ ràng phụ thuộc vào độ tuổi của cục huyết khối và liều lượng urokinase được áp dụng. Dưới chế độ điều trị với liều duy trì ban đầu trung vị của urokinase là 1,000–2,000 IU/kg/h (liều nạp 150,000–250,000 IU urokinase) kết hợp với heparin (15–17 U/kg/h), trong số chín trên 11 bệnh nhân (82%) có cục huyết khối mới hình thành (tối đa 8 ngày), đã quan sát thấy sự thông tĩnh mạch gần như hoàn toàn. Trong các trường hợp có cục huyết khối tồn tại hơn 10 ngày không có sự thay đổi nào về tình trạng tắc nghẽn tĩnh mạch. Không ghi nhận tác dụng phụ đáng kể. Kết quả của chúng tôi nhấn mạnh vai trò của liệu pháp urokinase trong điều trị tắc tĩnh mạch dưới đòn-xoang cấp tính và cho phép rút ra những suy luận chung về hiệu quả và các yêu cầu về liều lượng của chất tiêu huyết urokinase.
#Urokinase #tắc tĩnh mạch dưới đòn #liệu pháp tiêu huyết #huyết khối
Ultrahochdosierte Streptokinasekurzzeitlyse một cục huyết khối transit bên phải ở bệnh nhân 68 tuổi có huyết khối tĩnh mạch sâu ở chân và thuyên tắc phổi Dịch bởi AI Intensivmedizin und Notfallmedizin - Tập 34 - Trang 291-293 - 1997
Một bệnh nhân 68 tuổi bị khó thở trong 5 ngày đã được tiến hành siêu âm sau khi có chỉ định từ y học hạt nhân về thuyên tắc phổi ở giai đoạn II-III trước khi điều trị tiêu huyết. Trong quá trình siêu âm, phát hiện một cục huyết khối trôi nổi ở nhĩ phải. Do tình trạng nguy hiểm đến tính mạng cấp tính, một đợt điều trị tiêu huyết bằng streptokinase liều cao rất lớn (UHSK) với 9.000.000 đơn vị streptokinase trong 6 giờ và đồng thời truyền tĩnh mạch heparin đã được khởi đầu. Sau 3 chu kỳ điều trị, cục huyết khối transit đã hoàn toàn được giải quyết và huyết khối ở chân gần như đã tan. Phương pháp điều trị này là một lựa chọn thú vị cho tình trạng bệnh được đề cập.
#thuyên tắc phổi #huyết khối tĩnh mạch sâu #streptokinase #điều trị tiêu huyết #siêu âm.
ĐÁNH GIÁ KẾT QUẢ MÔ HÌNH CAN THIỆP LÀM TĂNG CƠ HỘI CHỈ ĐỊNH ĐIỀU TRỊ BẰNG THUỐC TIÊU HUYẾT KHỐI TRÊN NGƯỜI BỆNH NHỒI MÁU NÃO CẤP TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA PHỐ NỐI Mục tiêu: Xác định tỷ lệ người bệnh đến sớm, được tiêu huyết khối và kết quả điều trị nhồi máu não so với giai đoạn 2018 - 2020.Đối tượng và phương pháp: 318 bệnh nhân được chẩn đoán nhồi máu não cấp theo tiêu chuẩn của WHO. tuổi từ 18 trở lên; nhập bệnh viện đa khoa Phố Nối từ tháng 01 năm 2021 đến tháng 6 năm 2022. Nghiên cứu quan sát mô tả.Kết quả: Nghiên cứu thu tuyển được 318 ca nhồi máu não, tỷ lệ người bệnh nhập viện sớm hơn ở tất cả các cửa sổ, trong đó, tỷ lệ nhập viện trong cửa sổ 4,5 giờ đầu (chiếm 29,6%) cao hơn so với giai đoạn trước đó (19,6%). Thời gian cửa-kim (Thời gian từ lúc người bệnh nhập cấp cứu đến khi được tiêm thuốc) trung bình ở giai đoạn sau can thiệp là 43,8 phút thấp hơn có ý nghĩa thống kê so với giai đoạn trước can thiệp là 51,4 phút. Tỷ lệ người bệnh nhồi máu não cấp được tiêu huyết khối đạt kết quả điều trị tốt, mRS 0-2 là 31,3%, không khác biệt so với giai đoạn trước can thiệp.Kết luận: Sau 1,5 năm áp dụng mô hình can thiệp đa phương thức trong quản lý người bệnh đột quỵ não giúp làm tăng tỷ lệ người bệnh đến nhập viện sớm trong tất cả các cửa sổ thời gian, đặc biệt cửa sổ 4,5 giờ; giúp rút ngắn thời gian cửa-kim, nhưng chưa thấy cải thiện kết quả điều trị.
#Nhồi máu não cấp #tiêu huyết khối #kết quả điều trị
Khám Phá Các Chỉ Dấu Sinh Học Đối Với Suy Giảm Đường Huyết Trước Và Sau Khi Khởi Phát Bệnh Tiểu Đường Loại 2: Đặc Điểm Mô Tả Của Nghiên Cứu Dịch Tễ Trong Tổ Hợp IMI DIRECT Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 62 - Trang 1601-1615 - 2019
Tại đây, chúng tôi mô tả các đặc điểm của Các Tổ Hợp Nghiên Cứu Dịch Tễ IMI (Sáng Kiến Thuốc Đổi Mới) Về Phân Loại Bệnh Nhân Bệnh Tiểu Đường (DIRECT) tại các lần kiểm tra cơ bản và theo dõi (18, 36 và 48 tháng theo dõi). Từ một khung mẫu gồm 24,682 người trưởng thành có nguồn gốc châu Âu được tuyển chọn trong các hệ thống nhóm dân số trên toàn châu Âu, những người tham gia có nguy cơ khác nhau đối với sự suy giảm đường huyết đã được xác định bằng cách sử dụng thuật toán dự đoán nguy cơ (dựa trên độ tuổi, BMI, vòng bụng, việc sử dụng thuốc hạ huyết áp, tình trạng hút thuốc và lịch sử cha mẹ mắc bệnh tiểu đường loại 2) và được đưa vào một nghiên cứu nhóm dự kiến (n = 2127) (nhóm 1, nguy cơ tiền tiểu đường). Chúng tôi cũng đã tuyển những người từ các đăng ký lâm sàng có bệnh tiểu đường loại 2 được chẩn đoán trong khoảng thời gian 6–24 tháng trước đó (n = 789) vào một nghiên cứu nhóm thứ hai (nhóm 2, bệnh tiểu đường). Các lần kiểm tra theo dõi diễn ra tại khoảng 18 tháng (cả hai nhóm) và vào khoảng 48 tháng (nhóm 1) hoặc khoảng 36 tháng (nhóm 2) sau khi kiểm tra cơ bản. Các nhóm được nghiên cứu song song bằng cách sử dụng các giao thức phù hợp qua bảy trung tâm lâm sàng ở Bắc Âu. Sử dụng các loại đường huyết của ADA 2011, 33% (n = 693) của nhóm 1 (nguy cơ tiền tiểu đường) có chức năng điều hòa glucose bình thường và 67% (n = 1419) có chức năng điều hòa glucose bị suy giảm. Bảy mươi sáu phần trăm người tham gia trong nhóm 1 là nam. Người tham gia nhóm 1 có các đặc điểm sau (trung bình ± SD) ở điểm khởi đầu: tuổi 62 (6.2) năm; BMI 27.9 (4.0) kg/m2; glucose nhịn ăn 5.7 (0.6) mmol/l; glucose 2 giờ 5.9 (1.6) mmol/l. Tại lần kiểm tra theo dõi cuối cùng, các đặc điểm lâm sàng của người tham gia như sau: glucose nhịn ăn 6.0 (0.6) mmol/l; glucose OGTT 2 giờ 6.5 (2.0) mmol/l. Trong nhóm 2 (bệnh tiểu đường), 66% (n = 517) được điều trị bằng cách thay đổi lối sống và 34% (n = 272) được điều trị bằng metformin và thay đổi lối sống tại thời điểm tham gia. Năm mươi tám phần trăm người tham gia trong nhóm 2 là nam. Người tham gia nhóm 2 có các đặc điểm sau tại thời điểm cơ bản: tuổi 62 (8.1) năm; BMI 30.5 (5.0) kg/m2; glucose nhịn ăn 7.2 (1.4) mmol/l; glucose 2 giờ 8.6 (2.8) mmol/l. Tại lần kiểm tra theo dõi cuối cùng, các đặc điểm lâm sàng của người tham gia như sau: glucose nhịn ăn 7.9 (2.0) mmol/l; glucose trong bài kiểm tra dung nạp thức ăn hỗn hợp 2 giờ 9.9 (3.4) mmol/l. Các nhóm IMI DIRECT được đặc trưng hóa một cách sâu sắc, với nhiều biện pháp liên quan đến chuyển hóa được đánh giá một cách có hệ thống. Chúng tôi dự đoán rằng các nhóm, được cung cấp thông qua việc truy cập có quản lý, sẽ cung cấp một nguồn tài nguyên mạnh mẽ cho việc phát hiện các chỉ dấu sinh học, phân tích đa biến về nguyên nhân và phân loại lại bệnh nhân để ngăn ngừa và điều trị bệnh tiểu đường loại 2.
#bệnh tiểu đường loại 2 #suy giảm đường huyết #nghiên cứu dịch tễ #chỉ dấu sinh học #thay đổi lối sống #kiểm tra dung nạp glucose